Công thức thức ăn được xây dựng dựa trên 10% là cơ sở khoa học và 90% là kinh nghiệm, điều này không phải vì thiếu nền tảng khoa học hỗ trợ hiệu quả cho công tác phối hợp khẩu phần, mà đây là một công việc mà chúng ta tự học lấy sau khi rời giảng đường. Có rất ít trường đại học giảng dạy chuyên về công thức thức ăn, ngay cả những chương trình đào tạo sau đại học, và nếu có thì cũng ít nghiên cứu sâu sắc vào lĩnh vực này.
Trong chương trình đào tạo của một số sinh viên tốt nghiệp thường đề cập đến những khóa học về dinh dưỡng động vật; ở những khóa học ấy, các phương pháp xây dựng công thức thức ăn chỉ được trình bày về mặt lý thuyết. Một số ít người may mắn có kinh nghiệm xây dựng khẩu phần thật sự nhờ sử dụng một chương trình phối hợp khẩu phần trên máy tính. Thậm chí sau đó, họ cũng phải mất nhiều năm thử nghiệm thực tế và đối mặt với nhiều rủi ro để hiểu được vì sao một số công thức mang lại hiệu quả, số khác thì không. Những “bí mật” dưới đây xoay quanh những vấn đề thường bị “bỏ quên”, dựa trên những kinh nghiệm của riêng tôi.
1. Hàm lượng sắt thực tế cao hơn lý thuyết tính toán
Hầu hết các công thức cho động vật dạ dày đơn được bổ sung thêm đến 100 ppm sắt, từ các muối sắt như sắt sulfat. Lượng sắt này thường nhiều hơn so với nhu cầu thật sự của vật nuôi, bỏ qua hàm lượng sắt có trong nguyên liệu tự nhiên như bắp, lúa mì và đậu nành. Đây là thói quen thường thấy đối với tất cả các khoáng vi lượng như sắt. Tuy nhiên, với trường hợp của sắt, chúng ta thường có một nguồn sắt khác là DCP (dicalcium phosphate) hoặc MCP (monocalcium phosphate). Những nguồn canxi và phốt pho (chủ yếu) này có thể chứa đến 8.000 ppm sắt, còn với những nguồn phốt pho khác, ví dụ như đá phốt phát, có đến 19.000 ppm sắt (NRC, 2012). Thêm 10 kg / tấn canxi phốt phát (8.000 ppm sắt) sẽ cung cấp thêm 80 ppm sắt vào khẩu phần hoàn chỉnh. Con số này sẽ là 190 ppm nếu thay thế bằng đá phốt phát.
Ngoài ra, một số loại thức ăn dành cho thú non thường được bổ sung thêm chất tạo màu vàng, thường là oxit sắt, ở liều 1 kg/ tấn. Liều dùng này tương đương với 700 ppm sắt (sắt oxit chứa khoảng 70% hoặc 70.000 ppm sắt). Ở đây, chúng ta không nhấn mạnh về vấn đề độc tính với vật nuôi hay ô nhiễm môi trường, trong thực tế thì Escherichia coli, vi khuẩn gây bệnh phổ biến ở ruột già, thường phát triển mạnh khi dư thừa sắt (và protein). Để kiểm soát tổng hàm lượng sắt trong thức ăn nhạy cảm chúng ta cần kiểm tra kỹ lưỡng hơn với thông tin trên nhãn sản phẩm premix khoáng!
2. Đá vôi - không chỉ có canxi cacbonat
Đây là một quan niệm sai lầm thường gặp mà tôi đã nghĩ sau khi tốt nghiệp đại học. Và ông chủ của tôi đã giải thích để tôi hiểu rằng canxi cacbonat tinh khiết (hóa chất) không giống như đá vôi. Canxi cacbonat tinh khiết chứa 38% canxi, nhưng hàm lượng canxi trong đá vôi có thể dao động từ 22 đến 38% (với dạng tinh khiết nhất). Sự khác biệt về hàm lượng canxi là do những tạp chất tự nhiên trong quá trình khai thác đá vôi từ các mỏ khác nhau. Tùy thuộc vào nguồn gốc, vị trí và quy trình thai khác, hàm lượng canxi có thể khác biệt so với dự đoán.
Đây cũng không phải là vấn đề lớn đối với hầu hết các loài động vật, nhưng đối với gà đẻ, bò sữa và heo con, chúng ta cần tính toán chính xác về lượng canxi tiêu thụ. Dư thừa sẽ làm cho vật nuôi gặp rối loạn, còn thiếu hụt thì năng suất vật nuôi không tốt. Đây là lý do vì sao người ta dần loại bỏ đá vôi hoặc chỉ sử dụng trong các công thức thức ăn thông thường, và ưa chuộng sử dụng các dạng canxi cacbonat hóa chất tiêu chuẩn, hay canxi cacbonat dành riêng cho thức ăn chăn nuôi.