Nghiên cứu về quản lý kháng sinh thông qua cải thiện sức khỏe đường ruột

Acare VN - Mặc dù kháng sinh là một hình thức trị bệnh và công cụ để giữ cho vật nuôi khỏe mạnh nhưng kháng sinh lại ngày càng được người tiêu dùng xem xét kỹ lưỡng và có nhu cầu đòi hỏi các sản phẩm thịt không chứa kháng sinh.


 Tập hợp các yếu tố để thay đổi cách thức quản lý sức khỏe động vật và cải thiện quản lý kháng sinh là một điều khó khăn cho ngành dinh dưỡng và thú y, điều mà các nhà nghiên cứu đang xem xét để người sản xuất có thể tiếp tục đáp ứng nhu cầu bền vững của thị trường.

Duy trì sự hiệu quả của kháng sinh thông qua việc quản lý tốt là mục tiêu chính của những nỗ lực của cả nhà sản xuất và nhà nghiên cứu toàn cầu hiện nay. Tuy nhiên, kháng sinh không có khả năng bị loại bỏ hoàn toàn khỏi ngành dinh dưỡng và sức khỏe động vật. Chúng có hiệu quả trong việc kiểm soát các bệnh gây tổn thất và các vấn đề khác ở gia súc và gia cầm, kháng sinh phải được sử dụng một cách có trách nhiệm để hiệu quả đó có thể bền vững theo thời gian. Quản lý kháng sinh cũng có nghĩa là cần sử dụng cẩn thận và có chọn lọc kháng sinh (thích hợp cho cả người và động vật) tránh rủi ro đề kháng khi con người sử dụng.

“Nếu chúng ta có thể giảm sử dụng kháng sinh ở người và động vật bằng cách chỉ sử dụng chúng khi cần thiết thì chúng ta sẽ giảm mức độ kháng kháng sinh trên toàn cầu. Kháng sinh rất quan trọng đối với tất cả các loài động vật và con người khi bị nhiễm khuẩn, nhưng chúng có thể bị lạm dụng,” Ông Tom Marsteller cho biết. "Quản lý kháng sinh là mục tiêu, vì vậy chúng được sử dụng đúng lúc với sự giám sát thích hợp, bởi một chuyên gia về sức khỏe hoặc bác sĩ thú y."

Nhu cầu trên thế giới về quản lý tốt kháng sinh

Khái niệm quản lý kháng sinh không phải là mới. Nó đã được đề cập trên bài báo cáo của các nhà nghiên cứu trong gần bốn thập kỷ, theo Marsteller, nhưng nó là một vấn đề khó khăn cần có sự phối hợp cần thiết giữa ngành và chính phủ.

Các tổ chức toàn cầu như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Tổ chức Thú y Thế giới, Viện Chăn nuôi Quốc gia, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) và Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật đều đang nhắm đến việc sử dụng kháng sinh có trách nhiệm thông qua các chính sách.

Đầu năm ngoái, FDA đã đưa ra chính sách VFD nêu rõ các kháng sinh quan trọng có ảnh hưởng sức khỏe con người được sử dụng cho động vật phải có sự giám sát của bác sỹ thú y. Điều này ảnh hưởng đến một số loại thuốc kháng sinh, bao gồm các sản phẩm sử dụng thường xuyên trước đây. Chính sách mới vẫn cho phép một số loại kháng sinh nhất định được sử dụng làm chất thúc đẩy tăng trưởng, những loại này không quan trọng đối với các vấn đề sức khỏe con người.

Marsteller cho biết, đối với những chính sách này, các nhà chăn nuôi muốn cắt giảm sử dụng kháng sinh để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng sẽ làm cho ngành công nghiệp tiếp tục tiến đến những cải tiến về quản lý kháng sinh.

“Các bác sĩ thú y, các nhà sản xuất chăn nuôi động vật, ngành thức ăn chăn nuôi, ngành công nghiệp dược phẩm, nhà phân phối nguyên liệu thức ăn, tiểu bang và liên bang đã thực hiện các thay đổi về quản lý và cải thiện hệ thống theo dõi về cách thức và lý do tại sao họ sử dụng thuốc kháng sinh trong sản xuất chăn nuôi động vật ngày nay. Kết quả là việc quản lý sử dụng kháng sinh ở động vật sẽ được cải thiện nhiều hơn trong tương lai,” Marsteller nói. “Cách tiếp cận ban đầu là để hiểu rõ hơn về cách thực hiện những thay đổi quan trọng đối với việc sử dụng và ứng dụng kháng sinh. Bước tiếp theo là xác định những thay đổi quản lý ở cấp độ trang trại cần phải được thực hiện để việc quản lý thuốc kháng sinh trở thành một công việc thường xuyên.”

Thực hiện bước tiếp theo

Quản lý kháng sinh ở cấp độ trang trại bắt đầu với chẩn đoán ban đầu và các bước tiếp theo ngay sau đó. Bởi vì kháng sinh có chi phí tương đối thấp và có hiệu quả cao đối với bệnh tật nên trước đây nó là một trong những lựa chọn đầu tiên để xem xét điều trị.

“Điều quan trọng là phải đánh giá về tình trạng bệnh từ ba hoặc bốn lần trước khi quyết định sử dụng một loại kháng sinh. Trước tiên nên xem xét các lựa chọn khác và có thể nên điều chỉnh phương thức quản lý,” Marsteller nói. “Vì thuốc kháng sinh luôn sẵn có và không bị giới hạn trong thời gian dài nên chúng dễ dàng được sử dụng, tiết kiệm và hiệu quả. Nhưng ngày nay môi trường sản xuất ngày càng phát triển và nhu cầu tiêu dùng đang thay đổi điều đó.”

Một công cụ quan trọng thay đổi việc sử dụng nhiều kháng sinh đó là sử dụng các axit hữu cơ và các chất axit hóa, khi các chất này được bổ sung vào nguồn nước và thức ăn có thể giúp cải thiện sức khỏe của động vật vì vậy về cơ bản động vật sẽ ít bị nhiễm các bệnh phải điều trị bằng kháng sinh. Các chất axit hóa không phải là mới đối với ngành chăn nuôi, nhưng việc sử dụng chúng như một cách để thúc đẩy sức khỏe đường ruột ít được chú ý khi thuốc kháng sinh dường như trở thành phương pháp quản lý bệnh hiệu quả nhất về chi phí.

"Việc làm cho ngành chăn nuôi nhận thức được rằng các sản phẩm này luôn sẵn có, và hơn nữa về cách sử dụng chúng để cải thiện sức khỏe đường ruột dường như là chưa đủ," Marsteller nói. "Axit hữu cơ đã có mặt trong 30 năm, nhưng bây giờ chúng mới có được sự quan tâm do nhu cầu giảm kháng sinh trên toàn ngành."

Thích ứng với các chiến lược quản lý mới

Việc thích ứng với các sản phẩm và chiến lược mới đôi khi có thể đòi hỏi một suy nghĩ khác khi nói đến việc quản lý sức khỏe động vật. Với các bệnh thông thường ở gia súc và gia cầm, việc duy trì sức khỏe đường ruột tốt là một cách để ngăn ngừa vấn đề này trước đây được gải quyết bằng kháng sinh. Và sức khỏe đường ruột tốt là một sự phản ánh trực tiếp môi trường sống của động vật  cũng như chất lượng thức ăn và nước uống.

Duy trì nguồn thức ăn và nước sạch an toàn, chất lượng cao là mục tiêu của chăn nuôi. Nếu nguồn thức ăn sạch và không có chất gây ô nhiễm, nó sẽ giảm thiểu stress sinh lý của động vật và giúp duy trì sức khỏe đường ruột tốt hơn. Cải thiện tính toàn vẹn đường ruột giúp động vật đẩy các chất ô nhiễm tiềm ẩn qua hệ tiêu hoá của chúng với ít hoặc không gây tác động tiêu cực, và kết hợp với sự lưu ý về các yếu tố gây stress khác như thay đổi nhiệt độ và môi trường, động vật có sử dụng thức ăn và tăng trọng một cách hiệu quả.

Các axit hữu cơ có tác dụng lạm sạch vi khuẩn và nấm độc hại trong nguồn nước.

Chuyển từ chiến lược quản lý bệnh dựa vào kháng sinh sang một chiến lược sử dụng các chất phụ gia thay thế trong công tác phòng ngừa để tăng cường sức khỏe đường ruột của động vật là một quá trình dài lâu và có thể mang tốn thêm chi phí cho nhà sản xuất. 

Các nỗ lực quản lý toàn ngành

Việc sử dụng tổng hợp các axít hữu cơ, các chất axit hóa và các công cụ khác trong thức ăn và nước không phải là một viên đạn bạc loại bỏ các bệnh thông thường cướp đi lợi nhuận của ngành. Và, nó không phải là một công cụ để thay thế cho thuốc kháng sinh, Marsteller nói. Các hợp chất có thể giúp động vật trở nên ít nhạy cảm với các bệnh thông thường, vì vậy việc sử dụng kháng sinh có thể không thường xuyên hoặc không cần thiết hơn. 

“Ví dụ axit hữu cơ, là một công cụ trong hộp dụng cụ. Tuy nhiên, nỗ lực này thực sự bắt đầu với an toàn sinh học tại trang trại và đàn sinh sản có sức khỏe cao. Bạn muốn đàn nái của mình âm tính với PRRS và bệnh cúm heo chẳng hạn. Việc loại bỏ PRRS và cúm thực sự rất khó khi bạn gặp vấn đề với chúng" Marsteller nói. “Nếu trại bắt đầu với động vật có sức khỏe tốt thì có thể thực hiện các thay đổi trong quản lý để đảm bảo rằng những mầm bệnh này không xâm nhập vào đàn heo nái sạch.”

Kháng sinh sẽ luôn là một phần của ngành chăn nuôi, nhưng những thay đổi về quản lý và tập trung vào cải thiện sức khỏe đường ruột sẽ giúp các nhà sản xuất tiếp tục thích ứng và đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.

“Động vật mắc bệnh từ vi khuẩn sẽ được điều trị một cách thích hợp để bảo vệ sức khoẻ”, Marsteller nói. “Chúng ta có thể cải thiện an toàn sinh học, quản lý động vật và sức khỏe đường ruột để giảm sự phát triển của bệnh trong trang trại. Chăn nuôi lành mạnh, quản lý kháng sinh tốt và cung cấp thực phẩm lành mạnh là mục tiêu cuối cùng của cả người sản xuất và người tiêu dùng.”

Nguồn: Feedstuffs
Biên dịch: Acare VN Team

kỹ thuật khác